Bào
chữa cho bị cáo Lê Thị Công Nhân, can tội: "Tuyên truyền chống Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" tại phiên toà Phúc thẩm của Toà
Phúc thẩm, Toà án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội vào ngày 27/11/2007.
I. Về mặt hình thức, viêc xét xử sơ thẩm có nhiều sai phạm:
a. Xét xử sơ thẩm đã không tuân thủ nguyên tắc "Truy tố đến đâu xét xử đến đó":
Xét
xử sơ thẩm đề cập đến nhiều hành vi có dấu hiệu của các tội khác như:
liên hệ với người này người nọ,...tổ chức các đảng phái kia
khác...trong khi việc truy tố chỉ đề cập các hành vi của điều 88.
Nếu
xét xử sơ thẩm thấy có bỏ lọt tội thì án sơ thẩm phải đề khởi án kiện
để khởi tố một vụ án mới. Nếu thấy chỉ có dấu hiệu phạm tội nhưng chưa
đủ yếu tố cấu thành tội khác thì Toà án phải thể hiện điểm này trong
bản án.
Không
làm như trên, gây nghi ngờ là ta muốn xử tội này nhưng lại che dấu dưới
một tội khác, là ta đã che dấu vụng về một vụ án chính trị.
b. Việc đánh giá chứng cứ quá sơ sài, có vi phạm nghiêm trọng:
Theo
nguyên tắc đánh giá chứng cứ tội phạm điều 88 thì Toà phải trích dẫn
câu nói, chữ viết, hình ảnh có dấu hiệu phạm tội để minh định sai phạm,
có tranh luận...để kết định là phạm tội hay không?
Các
vụ án khác có giám định mọi mặt: pháp y, kiểm toán, kinh tế, tài chính,
ADN... thế mà còn phải trầy trật để xác định sự thật. Sự thật lại phải
đạt đến mức: mọi người phải thừa nhận là có vụ việc đó, nội dung, thực
chất là có vi phạm mới đủ.
Nhưng trong vụ án này Toà sơ thẩm chỉ nêu hiện tượng rồi kết luận ngay.
Toà
còn một sai phạm nghiêm trọng là đánh giá chứng cứ một chiều: Phạm Văn
Trội được Toà gọi, là nhân chứng. Trội đã hứa trước Toà khai báo đúng
sự thật. Toà không đếm sỉa gì đến Trội trong suốt phiên Toà. Trội đã
phản ứng sau phiên Toà. Ai cũng biết Trội là người của bên những người
bị kết tội.
Người ta coi việc đánh giá chứng cứ trên là phiến diện, một chiều. Thẩm tra chứng cứ một chiều là một sai phạm nghiêm trọng.
c. Xét xử sơ thẩm có sai phạm là đã hạn chế đến mức ngăn cản việc tranh luận:
Đánh giá chứng cứ cần tranh luận nhưng không được thực hiện. Định tội, lượng hình cũng không được tranh luận.
Xin xem lại bút ký, nghe lại ghi âm thì rõ.
Nếu là một vụ án trong phạm vi văn học, nghệ thuật, với thơ ca, hội hoạ thì việc tranh luận càng phức tạp và kéo dài...
Ta
đã nhầm lẫn không coi viêc tranh luận là xuyên suốt từ đầu đến cuối
phiên toà, từ khâu đánh giá chứng cứ đến khâu luợng hình...
d.
Với 3 sai phạm trên về mặt hình thức, có thể kết luận là án xử sơ thẩm
chưa đủ tiêu chuẩn để được xét xử phúc thẩm, vì lẽ án xử phúc thẩm phải
có trọng tâm, sửa là sửa điểm cơ bản chứ không phải xử lại lần 2 bằng
cách làm lại từ đầu...
Cứ
tiến hành xét xử phúc thẩm từ khâu xác minh sự thật, xác định những
tình tiết để lượng hình là không thể được. Còn huỷ bản án để xử lại từ
khâu sơ thẩm là việc vô cùng phiền hà, kéo theo nhiều phức tạp hệ luỵ.
Xin tuỳ Toà quyết định và phiên toà phúc thẩm công khai sẽ giải quyết phức tạp này.
Riêng tôi, đề nghị Toà không đề cập đến các hành vi khác ngoài điều 88. Thế là gọn hơn cả.
II. Việc xét xử sơ thẩm có sai sót về phương pháp từ đó sinh ra sai sót về nội dung:
Nhiều
nguời với quan điểm khác nhau, kêu ca điều 4 của Hiến pháp Việt Nam là
sao chép điều 6 của Liên xô cũ. Chỉ có luật Việt Nam mới có điều 88 vì
điều này đối với thế giới bị coi là vi phạm dân chủ và nhân quyền.
Theo
tôi, mỗi quốc gia, trong luật lệ của mình thế nào cũng có những điều
khác biệt. Những nguời xét xử phải tuân thủ luật pháp của nơi xảy ra vụ
việc. Việc phê phán, sửa đổi, bổ sung, thay thế điều luật là thuộc về
các nhà nghiên cứu, các nhà làm luật...Các người tham gia xét xử chỉ
biết áp dụng điều luật hiện hành.
Lâu lắm, tôi có đọc giáo trình luật của Liên xô. Tôi thấy có điều luật tương tự điều 88 của ta hiện nay.
Đây
là vấn đề khoa học. Đã chấp nhận một nguyên lý, một nguyên tắc thì cũng
phải chấp nhận phương pháp tương ứng. Chưa có cái mới thay thế thì mặc
nhiên cái cũ, dù cũ bao nhiêu lâu, vẫn phải được duy trì.
Tài liệu này còn hướng dẫn việc nghiên cứu xét xử:
Điều
88 có 3 hành vi: viết, nói, hình ảnh cần đi sâu để xác định tội. Sau đó
thêm hành vi tàng trữ. Đối với từng hành vi cần tìm hiểu nội dung
chuyển tải. Xét nội dung chuyển tải có động cơ mục đích chống nhà nước
không. Không vì tội này có "cấu thành hình thức" mà không suy nghĩ về
tác hại tất yếu xảy ra.
Tôi
thấy việc xét xử sơ thẩm chỉ nêu hành vi, có dấu hiệu của tội theo điều
88 rồi kết tội, không hề tiến hành theo các bước trên.
Việc mở lớp học coi như hành vi phạm tội nặng nhất, then chốt của vụ án này nhưng việc xét xử mờ nhạt, đầy mâu thuẫn.
Nói
rằng trường hợp các em đã tuyên truyền phản động nhưng buổi họp này
cũng có nhân vật: Phương Anh, Trội, Thuỳ, Dương, Công Nhân...nội dung
tố cáo của các em gồm những điều sơ đẳng, xa lạ với cử toạ trên. Nội
dung trao đổi là 5 tài liệu lấy ở trên mạng của các nhà nghiên cứu nước
ngoài. Không có nội dung nói về Việt Nam. Tài liệu học tập là cái gốc
để xem xét tính chất của lớp học...
Người
học, sách học như thế làm người ta nghĩ đến mức cần bác bỏ lời lời tố
cáo của các em nhân chứng. Có thể tin lời của Công Nhân: "Có các buổi
trao đổi về lý luận. có các em ngồi nghe."
Các
cuộc nói chuyện với đài báo nước ngoài không được trích dẫn nội dung,
không được thẩm tra...mà đã nêu ngay như một hành vi phạm tội.
Riêng về các hành vi "nói" của các bị cáo đã bị quy kết là phạm tội một cách không có cơ sở.
III. Cần xem xét hành vi của Lê Thị Công Nhân:
a. Xét xử hành vi có dấu hiệu phạm tội:
1/ Về hành vi nói:
Việc mở lớp học: không có kết luận nào là Lê Thị Công Nhân bàn soạn hoặc tổ chức lớp học
Trong 4 lần hội họp, LTCN dự 2 lần. Lần đầu, LTCN không nói gì...
Lần thứ 2 LTCN nhận thuyết trình một vấn đề. Vừa phát tài liệu, chưa nói gì
hay mới tự giới thiệu thì Công an đã vào giải tán, bắt người, thu tài liệu.
Xét tài liệu là một văn bản về các nguyên tắc dân chủ nhân quyền, không nói gì
đến tình hình Việt Nam.
Việc
LTCN bị quy kết nhiều lần điện đàm với các tổ chức nước ngoài. Xét án
sơ thẩm không nêu được nội dung nói những gì, có gì nguy hại đến Đảng
Cộng sản và Nhà nước... kết luận này phải được coi là thiếu căn cứ.Cả 2
hành vi nói trên không thể quy kết là dùng hình thức nói để " Chống nhà
nước...".
2/ Về hành vi viết:
Án sơ thẩm quy kết sai phạm ở 3 bài viết:
- Tình trạng và đòi hỏi phải giải quyết tình trạng của giai cấp công nhân. - Về việc không cho phép có báo chí tư nhân. - Về việc bãi bõ Nghị định 31CP
Cáo
trạng cũng như trong phiên toà sơ thẩm chỉ nêu tên 3 văn bản còn không
trích dẫn, không có phân tích một điều cụ thể nào để đánh giá chứng cứ
làm cơ sở để kết tội.
Về
viết, tôi nghĩ không có cơ sở để kết tội vì không có trích dẫn những
dấu hiệu nguy hiểm, không có phân tích, không có đối thoại...Dù vậy tôi
vẫn đọc 3 bài viết này thì không thấy dấu hiệu của việc bịa đặt, bôi
nhọ, phá hoại. Cả 3 tài liệu mang tính chất một báo cáo khoa học.
Xét các mặt tiêu cực của tình hình thì thấy có nêu lên nhưng là có thực, mức độ còn thấp hơn các báo chí công khai.
Sai
phạm không phải đánh giá sai chứng cứ mà là không có dấu hiệu của việc
đánh giá chứng cứ, và các tài liệu viêt không có dấu hiệu phạm tội.
Kết luận: về hành vi viết là không có tội.
3/ Về hành vi tàng trữ:
Lê Thị Công Nhân có một số tài liệu gọi là "ngoài luồng", bằng giấy hoặc trên máy vi tính. Số lượng là 25 đầu tài liệu.
Án
sơ thẩm cũng không nêu lên cụ thể một tài liệu nào với nội dung có
những gì vi phạm pháp luật và việc tàng trữ này nhằm mục đích gì. Xét
tình hình hiện nay các tài liệu kiểu này nhiều người có. Điều không thể
chấp nhận được là việc điều tra, truy tố, xét xử kết luận một số tài
liệu vi phạm pháp luật trong khi tác giả của nó, xét những người viết
này hiện đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Người viết không phạm tội.
Người đọc và lưu giữ lại phạm tội hình sự. Xét cần bác bỏ kết luận này.
Hơn
nữa hiện nay kỹ nghệ thông tin phát triển đến mức nhiều kết luận cũ coi
như phá sản. Số tài liệu mà án sơ thẩm đề cập đại bộ phận nằm trong máy
tính của Lê Thị Công Nhân.
Và còn vì hành vi này được dư luận rộng rãi: nếu kết tội là không hợp thời, không hợp lý cần phải thay đổi.
4/ Kết luận:
Lê
Thị Công Nhân không phạm tội " Tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam". Các hành vi viết, nói, tàng trữ đều không thể kết tội
là đã cấu thành tội phạm hình sự thuộc điều 88 Bộ Luật hình sự.
IV. Đề nghị kết định vụ án đối với Lê Thị Công Nhân:
a.
Vì những thiếu sót về hình thức và nội dung của án sơ thẩm, nghĩ các
hành vi của Lê Thị Công Nhân chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, vì lẽ
đó tôi đề nghị trả tự do cho Lê Thị Công Nhân theo chế định: "Không
phạm tội tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì không
đủ yếu tố cấu thành tội phạm".
b. Vì một lẽ nào đó mà cứ phải kết án, tôi đề nghị toà dành cho Lê Thị Công Nhân mức án bằng thời gian tạm giam.